Wednesday

THƠ VIẾT BÊN ĐỜI - vũ uyên giang 2021

 THƠ VIẾT BÊN ĐỜI

thơ vũ uyên giang 2021


Xin chân thành cám ơn các bạn hữu đã khuyến khích, giúp đỡ và yểm trợ tinh thần để Tập Thơ truyện  này được hình thành.

 

 

 

Thơ Viết Bên Đời

 

Tập thơ của VŨ UYÊN GIANG & MINH TÚ ÁI GIANG

Xuất bản tại Hoa Kỳ lần thứ Nhất năm 2020

Tác giả giữ bản quyền ©

Đánh máy, layout và trình bày: Chính Nhân

Bìa BÙI GIA NAM ĐỊNH

Copyright © 2020 by Vũ Uyên Giang and Minh Tú Ái Giang

ISBN# 0718910218803

All graphic are originals and are the property of

Vũ Uyên Giang and Minh Tu Ai Giang

Please do not copy or use without permission from the author.

Thank you for respecting the writer.

 

SÁCH CỦA VŨ UYÊN GIANG ĐÃ IN

-Đi Trên Đỉnh Buồn (Tập truyện 1971 – Việt Nam)

Thời Hoa Niên – Truyện dài viết feuilleton cho Nhật báo Hòa Bình 1967 – bản thảo đã bị mất

-Trên Đường Biên Giới – Văn Tuyển xuất bản Hoa Kỳ 1999

-100 Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ – Vũ Uyên Giang - Hồ Nam Đất Sống xuất bản 2006

-Trên Đường Biên Giới – Đất Sống tái bản năm 2007

-Chiến Trường Xưa – Thơ – Đất Sống 2008

-Nét Hoa Tường Cũ – Tuyển tập Thơ Văn của Vũ Uyên Giang và Minh Tú Ái Giang – Đất Sống xuất bản 2014

-Phi Vụ Bí Mật Trên Đất Thái Lan 2020

-Thơ Viết Bên Đời 2020 Tuyển tập Thơ Văn của Vũ Uyên Giang và Minh Tú Ái Giang

 -Tập truyện ngắn Ngựa Què của Vũ Uyên Giang

-Trong Lòng Địch – Truyện dài Tình báo – Vũ Uyên Giang

 

 

THƠ VIẾT BÊN ĐỜI

 

 

 

Tuyển tập thơ văn

 

 

 

 

 

Vũ Uyên Giang

Minh Tú Ái Giang

 

 

 

 

 

 

 

Vũ Uyên Giang

tên thật là Nguyễn Quang Vinh, cựu ký giả của nhật báo Miền Nam do ông Trần Đình Thân làm Chủ nhiệm (1965-1966) và Hoà Bình do Linh Mục Trần Du làm Chủ nhiệm (1966-1968). Sĩ Quan Trừ Bị QL VNCH phục vụ trong ngành Quân Báo (1968-1973). Sau khi giải ngũ Tháng 2/1973, là nhân viên Toà Đại sứ Hoa Kỳ tại  Sài gòn (1973-1975). Tù nhân trong các trại tù của cộng sản (1975-1981).Vượt ngục và vượt biển tìm tự do đến Thái Lan 1981.  Nhân viên Toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Bangkok, Thailand (1981-1983). Sinh viên Trường Đại Học Cộng Đồng Wilbur Wright College tại Chicago, Illinois (1983-1986). Chủ bút Chicago Việt Báo (1986-1987).

Chủ nhiệm và Chủ bút Nguyệt san Thời Việt tại Chicago (1987-1992). Chủ nhiệm và Chủ bút Tạp chí Đất Sồng tại Charlotte, North Carolina và Florida  (1999-2002). Chủ nhân cơ sở Thương mại AN HÒA Inc. tại Charlotte, North Carolina và San Leandro, CA (1993-2007). Chủ trương nhà xuất bản Đất Sống  2006. Về hưu kể từ Tháng 6/2007 hiện cùng gia đình cư ngụ ở Hoa Kỳ

 

 

Minh Tú Ái Giang

 

Quê quán: Quận Bến Cát, Tỉnh Bình Dương

Trước 1975: Nữ sinh Trưng Vương, Saigon

1980: Định cư ở Hoa kỳ

-Tốt nghiệp Cử Nhân Hóa Học tại University of  North Carolina at Chapel Hill.

-Tốt nghiệp Kỹ sư Điện toán tại North Carolina State University

-Tốt nghiệp Master  in Computer Science tại North Carolina State University.

-Hiện đang là Công chức Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ cho đến ngày nay.

Cùng phu quân Vũ Uyên Giang đang sinh sống ở Hoa Kỳ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Phần 1:

Thơ Vũ Uyên Giang

 

CHÂN IN DẤU GIÀY

  

Chiến trận tràn sang trên đất Miên (1)

Giày saut dẫm nát ᴄỏ Svay Rieng (2)

Mấy thằng Việt cộng như đàn ᴠịt

Chạy trốn đầy đồng như lũ điên

 

Thiết giáp hàng ngang bắn cộng quân

Bộ binh tùng thiết sát theo chân

Chiến trường vang tiếng bom và pháo

Hăm hở đi theo những chiến đoàn (3)

 

Móc Câu, Mỏ Vẹt Phân khu 2

Bắt sống Hai Thanh giặc chạy dài (4)

Sáu Mẹo cuống cuồng trong bệnh viện (5)

Dấu gày chinh chiến chẳng hề phai

 

Một thuở tung hoành trận mạc xa

Ngả lưng lữ quán ngỡ đâu nhà (6)

Neak Leoung dừng bước bên phà vắng

Chân bước ngang tàng xứ sở kia

 

VŨ UYÊN GIANG

Khi theo chiến đoàn 333 Biệt Động Quân hành quân sang Kampuchia năm 1970     

GHI CHÚ: 

(1)Năm 1970 QLVNCH đồng lᴏạt tấn công sang Kampuchia để triệt hạ các căn cứ địa của VC trú đóng dọc biên giới Việt- Miên. 

(2) Tỉnh Svay Rieng của Kampuchia giáp ranh các Tỉnh Tây Ninh, Long An và Kiến Tường của VNCH. 

(3) Các Chiến đoàn thuộc Quân Đoàn III tham dự cuộc hành quân vượt biên gồm: Chiến đoàn 225(thuộc Sư đoàn 25BB), Chiến đoàn 318 (thuộc Sư đoàn 318BB) và Chiến đoàn 333 Biệt Động Quân

(4) Trung tá Hai Thanh, Tư Lệnh Phân Khu 2 cua VC thuộc Quân khu I. 4 VC (VC chia Saigon, Chợ Lớn, Gia Định và các vung phụ cận thành 10 Phân Khu. Phân Khu 2 gồm Long An và vùng phụ cận Saigon; Phân Khu 6 gồm Saigon, Chợ Lớn và Gia Định)

(5) Sáu Mẹᴏ, Báᴄ ꜱĩ thủ trưởng của Bệnh viện Phân Khu 2 trú đóng ở Mỏ Vẹt.

(6) Khi dừng quân trong đêm, BCH Chiến đoàn 333BĐQ đã đóng quân trong 1 Bangalow ở Svay Rieng.

                    

 

TRÊN PHỐ BANGKOK     

Lang thang trên đất xứ người

Thailand chân bước lạc loài tha hương

Loanh quanh cũng vẫn phố phường

Dòng xe như nước trên đường ngược xuôi

Nhìn nền kinh tế nước người

Bỗng nghe một thoáng ngậm ngùi thương quê

Cộng quân cai trị ê chề

Tập trung cướp sạch, gom về bắc phương

Đánh tư sản, triệt mọi đường

Ngăn sông cấm chợ thảm thương dân tình

Khiến cho đời sống điêu linh

Tự do mất hết phải đành ra đi

Quê hương giã biệt sinh ly

Đánh đổi sinh mạng chỉ vì tự do

Biển kia hung hiểm sóng to

Bao nhiêu tàu lớn làm ngơ không nhìn

Trăm ngàn thân xác đắm chìm

Vùi thây biển dữ vẫn tìm bến mơ

Đường hầm cuối nẻo mong chờ

Trại giam đất Thái vật vờ xác thân

 

VŨ UYÊN GIANG

Trên đường phố Bangkok tháng 1/1982 nghĩ đến đồng bào tị nạn Việt Nam còn đang bị giam giữ ở Sikiew Detention Camp

 

TRỞ LẠI BANGKOK

Ta trở lại thăm xứ Thái Lan

Phrakeo chùa cổ. nắng phai tàn

Chói chang sắc thắm trong chiều vắng

Rộn rã trên sông cá quẫy đàn

 

Bangkok thưở nào ta ở đó

Lang thang trên phố nhớ quê nhà

Chỉ thấy thời gian màu cỏ úa

Vẫn là lối cũ vẫn đường xua

 

Thăm vùng du lịch Pattaya

Khoe sắc trên đường bao khách qua

Vẻ đẹp nghiêng thành cô gái trẻ

Chỉ là cải giống đứng lia chia

 

Từ giã Thailand thêm lần nữa

Khi nào có dịp ghé nơi đây

Mắt lòa chân chậm không còn cửa

Chỉ thấy trong hồn vương áng mây.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bangkok 1999 - Khi đi du lịch 5 nước Á châu

 

KHI Ở ĐÀI BẮC (1)

Phi cơ hạ cánh xuống Đào Nguyên (2)

Nhìn Phật Quang Sơn dáng nét quen (3)

Làng cổ Thập Phần hồng gạch đỏ (4)

Minh Sơn hoa rực chốn thần tiên (5)

 

Đài Trung cảnh sắc sương mênh mông (6)

Nhật Nguyệt Đàm mây tỏa sắc hồng (7)

Long Hổ lối ra ngay miệng hổ (8)

Xuân Thu đến ngắm tượng Quan Công (9)

 

VŨ UYÊN GIANG

Đài Loan 1999- Khi du lịch 5 nước Á Châu

 

(1) Đài Bắc (Taipei 臺北市; bính âm: Táiběi Shì,) nằm cực Bắc của Đài Loan, cạnh bến sông Đạm Thủy cách Cảng Cơ Long (sông Cơ Long (基隆河) khoảng 25kms.

(2) Phi trường Đào Nguyên (Tao Yuan)

(3) Phật Quang Sơn có tượng Phật cao nhất thế giới 108 mét

(4) Làng cổ Thập Phần ở Đài Bắc sạch như lau toàn gạch đỏ

(5) Đường Minh Sơn, nơi có hoa đẹp nhất Đài Bắc.

(6) Đài Trung (Tai Chung) là vùng cao nguyên của Đài Loan

(7) Nhật Nguyệt Đàm (Đầm Nhật Nguyệt) là một đầm nước lớn ở Đài Trung, có phong cảnh rất đẹp.

(8) Tháp Long Hổ ở Cao Hùng có hai ngọn tháp; lối vào phải chui vào hàm rồng và khi ra sẽ ra bằng miệng hổ.

(9) Ở Xuân Thu có tượng Quan Công thật lớn.

 

KHI Ở HONGKONG


Hương Cảng chung quanh biển nhấp nhô

Ta lang thang dạo gót giang hồ

Hồn lênh đênh giữa trời mây nước

Quê cũ đã chìm trong khuất xa

 

Người chen chân giữa phố Saigon (1)

Ta đến góc đường tên Hải Phòng

Một chợ chuyên bán hàng cẩm thạch

Người mua kẻ bán rộn ràng đông

 

Xuống Kim Sa Chuỗi quán bình dân (2)

Sực nức mùi thơm của thức ăn

Quay về bái Phật trên vùng núi (3)

Thanh thản trôi đi chút bụi trần.

 

VŨ UYÊN GIANG

HongKong 1999- Khi du lịch 5 nước Á Châu

 

(1)Ở HongKong có tên 3 con đường là Saigon Street, Hanoi Road và HaiPhong Road

(2)Khu Kim Sa Chuỗi ở Cửu Long (Kowloon) bán thức ăn rất ngon.

(3)Tượng Phật Thiên Tân trên núi ở HongKong

 

KHI Ở SEOUL, NAM HÀN

Chân bước  lang thang đất nước xa

Hoàng Cung dấu vết của ngày xưa (1)

Bâng khuâng lịch sử bao đời trước

Biến đổi vần xoay chẳng nhạt nhòa

 

VŨ UYÊN GIANG

Seoul, Nam Hàn 1999, khi đi du lịch 5 nước Á Châu

 

(1)Hoàng Cung cũ của Nam Hàn

 

KHI Ở SINGAPORE


Đảo nhỏ quanh co phố ngút cao

Mênh mông sóng nước mây xôn xao

Tân Gia Ba xứ thần tiên đó

Nỗi nhớ quê xưa vẫn dạt dào.

 

VŨ UYÊN GIANG

Singapore 1999 – khi đi du lịch 5 nước Á Châu

 

NGƯỜI ĐI 

Người đi một nửa hồn tôi mất,

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

(Những Giọt Lệ - Hàn Mặc Tử) 

-Viết theo tâm sự của một người bạn có vợ bỏ đi.


Người đã đi rồi ta ở đây

Gió thu heo hút mảnh vai gầy

Trăm năm thề ước như là bụi

Hồn vỡ theo từng cánh lá bay

 

Người qua bên ấy trăng hờ hững

Bỏ lại sau lưng nỗi nhớ mong

Hoài niệm chôn vùi sâu đáy mộ

Nỗi niềm thương nhớ cũng là không

 

Những giọt sầu vương trong đáy ly

Mềm môi chất ngất nỗi sầu bi

Xa xôi chốn ấy vui tình cũ

Gian dối rơi đầy trên lối đi


Quê cũ cũng đành ly biệt mãi

Nẻo về xa khuất tận chân mây

Là thôi như cánh bèo trôi dạt

Vui với đời ta dăm chén say

 

Quan hà đã thẹn thân bại trận

Tủi hận cuối đời những đắng cay

Tóc bạc ôm hờn nơi viễn xứ

Thôi đành giã biệt gió cùng mây

 

Người đi buổi ấy thôi là hết

Giọt lệ lăn dài trên khóe mi

Người đi ngày ấy tan thề ước

Một thuở ngại ngùng trăng biệt ly

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, Georgia Nov. 21, 2019


NHƯ GIỌT SẦU VƯƠNG


Rồi cũng bay vèo như cát bụi

Ngày qua thầm thũi nỗi buồn trôi

Mảnh trăng ngày cũ không là hẹn

Gian dối nở hoa trên đóa môi

 

Hàng cây ủ rũ khóc ly tan

Trời cũng rơi mưa nhỏ lệ hàng

Chao ơi hẹn cũ không còn ước

Một bóng thầm đi dưới ánh trăng

 

Nghe tiếng đêm dài chậm rãi rơi

Thời gian hờ hững nỗi bồi hồi

Ta vui với bóng trên tường vắng

Tíc tắc thời gian lặng lẽ trôi

 

Phòng không nhà vắng chó tru đêm

Như giọt sầu vương ở trước thềm

Ngõ trúc không nghe chim hoảng hốt

Lạc đàn ngơ ngác gợi buồn thêm

 

Một đi là đã bước sang ngang

Thôi hết không còn những tiếng than

Trăm năm hẹn ước bay theo mộng

Vỡ vụn tan thành gió thở than

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, Georgia Oct. 22, 2019


EM ĐI


Em đi nơi đó phương trời xa

Héo hắt niềm thương nhớ nhạt nhòa

Quê cũ đắm chìm trong ngục đỏ

Một trời kỷ niệm tháng ngày qua

 

Vẫn nhớ vỉa hè phố xá đông

Xôn xao ngõ vắng áo ai hồng

Guốc mộc khua trên thềm đại lộ

Cho người lính chiến mãi chờ mong

 

Từ giã Sài gòn những phố quen

Ra đi khi phố đã lên đèn

Theo chân người trước vào sưong gió

Ôm súng rừng sâu thức trắng đêm

 

Lính trận xa nhà nhớ dáng em

Một trời hoa mộng thuở thần tiên

Mang theo hình bóng người em gái

Ở chốn hậu phương, nhung nhớ thêm

 

Anh ở nơi này, em về quê

Cõi lòng trống vắng buồn lê thê

Trắng đêm thao thức niềm tâm sự

Rồi cũng phai tàn nỗi ủ ê.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire Nov. 8, 2019

 

NGẮM TẤM HÌNH XƯA


Ký ức từ đâu lại trở về

Một trời kỷ niệm thuở xa quê

Thời gian như bóng câu qua cửa

Hạt bụi nào cho ta tái tê?

 

Mẹ đà khuất bóng về phương tây

Hình ảnh vẫn còn lưu lại đây

Giá buốt trong tim hình bóng mẹ

Chao ơi giọt lệ đã dâng đầy

 

Ngày xưa theo mẹ đến thành Nam (1)

Ngọn gió heo may rụng lá bàng

Con cóc còn rong chơi thuở trước (2)

Bãi than máy sợi con lang thang (3)

 

Bến Thóc nhà ta có mấy căn (4)

Giặc vào cướp sạch thật gian tham (5)

Mẹ con bồng bế vào Nam sống

Bỏ hết cơ đồ mấy chục năm

 

Lũ cộng nô kia quá bất nhân

Giết người, cướp nước, gây lầm than

Tịch thu đấu tố bao dân chúng

Vét hết vơ cùng thỏa máu tham

 

Ngắm nhìn tấm ảnh của ngày xưa

Mới thấy thời gian phủ bóng mờ

Mới thấy kiếp người sao ngắn ngủi

Mẹ ơi! Con đã già hơn xưa.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, GA Tháng 11 năm 2019

(1) Thị xã Nam Định

(2) Vườn hoa con cóc Nam Định

(3) Nhà máy sợi Nam Định

(4) Khu Bến Thóc

(5) Năm 1954 khi VC vào tiếp thu Nam Định đã cướp sạch


 

TRĂNG LẠNH ĐẦU NON

 

Mảnh trăng lơ lửng trên đầu núi

Gió khẽ đong đưa những nhánh cây

Đếm bước âm thầm con phố cũ

Lòng như còn vướng chút heo may

 

Cơn lạnh tối qua mang giá rét

Thổi vào quạnh quẽ buổi chiều nay

Ta nghe như đã buồn như thể

Xơ xác vàng thu tuổi đã gầy

 

Một thuở nào xưa đã rất xa

Ta mang hoài bão những ngày qua

Năm tháng trôi vèo như cát bụi

Nẻo về mờ mịt, bỗng dưng già

 

Đầu núi chim kêu tiếng óan than

Khóc đời phiêu bạt mãi lang thang

Cũng chỉ như cành khô gỗ mục

Đầu non trăng lạnh đón thu sang

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, Nov. 15, 2019

 

MƯA THU

 

Giọt mưa tí tách bên song thưa

Hoa cúc bừng lên gió chuyển mùa

Bông giấy rộn ràng khoe sắc thắm

Lá vàng rơi rụng bay trong mưa

 

Thu đến cho hồn thêm quạnh quẽ

Vàng thu mấy độ úa u buồn

Lang thang ngõ cũ vùi tâm sự

Phòng vắng nhà không tủi ngập lòng

 

Từng hạt mưa rơi như oán hờn

Gió se se lạnh rít từng cơn

Cho ta gửi những giòng u uẩn

Về chốn quê xưa dạ héo hon

 

Từ thuở  xa quê tràn lệ héo

Nhìn về cố quốc những lầm than

Tà quyền một lũ người hung bạo

Bán đất cha ông thỏa máu tham

 

Thu đến cho ta nặng trĩu buồn

Hạt mưa thánh thót lệ rơi tuôn

Chao ơi! Tiếng vọng từ sâu thẳm

Càng khiến cho lòng lặng lẽ hơn.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, Oct. 31, 2019

 

CUỘC ĐỜI NHƯ GIÓ THOẢNG MÂY BAY


Mùa xuân này nữa vẫn xa quê

Ba chín năm qua quá não nề

Lưu lạc bên trời thân lữ thứ

Tha phương đất khách thật ê chề.

 

Ra đi khi tuổi còn tươi trẻ

Thoắt chốc nhìn ta bỗng đã già

Mái tóc bạc phơ đời gió bụi

Tấm thân hiu quạnh nhớ quê xa.

 

Quê cũ không là quê cũ nữa

Đổi thay dâu bể đến không ngờ

Đi tìm kỷ niệm ngày xưa đó

Chỉ thấy mờ xa trong giấc mơ.

 

Ngồi nghe tin bạn về miên viễn

Chán cảnh hồng trần lên cõi tiên

Quanh quất đâu đây trăng lẻ bạn

Một mình gặm nhấm những ưu phiền

 

Cái vòng luẩn quẩn trò sinh, tử

Chẳng thoát một ai cõi tạm này

Hãy cứ vui cùng cây với cỏ

Cuộc đời như gió thoảng mây bay.

 

VŨ UYÊN GIANG

Ngày 1 Tết Canh Tý

 

NHỚ MẸ


高堂明鏡悲白髮,

朝如青絲暮成雪?

“Cao đường minh kính bi bạch phát,

Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.”

Dịch:

Cha mẹ soi gương buồn nhìn tóc bạc

Sáng còn xanh mượt, tối đã trắng như tuyết.

(Thương Tiến Tửu 將進酒 – Lý Bạch - 李白)


***

 

NHỚ MẸ


Con mất Mẹ nên đời con đau khổ

Ngồi một mình con nhớ thuở xa xưa…

“…Rời quê hương, cơ cực mấy cho vừa (1)

Xa chốn cũ vào Nam tìm đất sống

Trên sóng lớn bao la trời biển rộng

Bốn mẹ con mong mỏi chút tự do

Trôi lênh đênh trên biển rộng hải hồ

Và tạm trú lều di cư Phú Thọ

Cuộc sống mới với những ngày sau đó…”

Nhớ về Mẹ con mắt lệ đầy vơi

Ôi Mẹ ơi! Giờ con mất mẹ rồi

Bóng hình Mẹ làm sao con tìm được?

Ở cõi Phật trên cao vui chân bước.

Mẹ! Mẹ ơi! Thanh thản chốn bình yên

Hãy dốc tâm rũ bỏ mọi ưu phiền

Vui kinh kệ cùng tiếng chông, tiếng mõ.

Với tâm thành giúp chúng sinh phổ độ

Me! Mẹ ơi! Con nhớ Mẹ nghìn đời.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, GA 29/4/2020)


TƠ TRỜI MONG MANH


落絮遊絲亦有情,

隨風照日宜輕舉。

 

Lạc nhứ du ty diệc hữu tình,

Tuỳ phong chiếu nhật nghi khinh cử.

 

Bản dịch của Nhượng Tống:

 

…Tơ hồng cũng vẻ hữu tình

Nắng soi gió thổi cất mình bay cao…”

(Bạch ty hành 白絲行 - Đỗ Phủ 杜甫)

***

 

TƠ TRỜI MONG MANH

 

Nhìn sợi tơ trời vơ vẩn bay

Cành trúc la đà trong gió lay

Lãng đãng, bồng bềnh như sóng bạc

Tơ chìm theo gió, lẫn trong mây.

 

Ta ở phương này lưu lạc xứ

Mơ thành mây trắng lại quê xưa

Được sống dăm ngày nơi chốn cũ

Sài gòn thuở trước đẹp như mơ.

 

Tóc trắng bạc màu như khói sương

Ta nghe mù mịt những con đường

Lối về xa lắc bao giờ thấy?

Chỉ tiếng thời gian lặng lẽ buông.

 

Tuổi tác đã nghe buồn ảo não

Ngày dài thê thiết nỗi buồn trôi

Chao ơi là nhớ con đường cũ

Rợp bóng hàng me ngả bóng thôi.

 

Tơ trời ai biết về đâu nữa?

Để lại mình ta giữa chốn này

Mắt lệ đã nhòa trong nỗi nhớ

Ta thấy mơ hồ trong giấc say.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, GA 30/4/2020

 

NGỒI NHÀ NGHĨ ĐẾN EM

(Tặng Minh Tú Ái Giang)

 

川途去無限,

客思坐何窮。

Xuyên đồ khứ vô hạn,

Khách tứ toạ hà cùng.

(Bạch Đế thành hoài cổ 白帝城懷古  -  Trần Tử Ngang 陳子昂)

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Dằng dặc đường sông nước

Ngồi thuyền khách nghĩ xa

***

 

NGỒI NHÀ NGHĨ ĐẾN EM

 

Cấm cố ở nhà nghĩ đến em

Trong mùa đại dịch chẳng hề yên

Chỗ làm em có an không nhỉ?

Tin tức làm anh lo lắng thêm

 

Kẻ địch vô hình gieo ác mộng

Tràn lan thế giới nỗi kinh hoàng

Mỗi ngày con số càng thêm lớn

Hoảng hốt con người tim vỡ tan.

 

Cẩn thận em ơi mùa dịch tàu

Ra đường phải ngó trước dòm sau

Giữ cho khoảng cách luôn 6 feet

Phải giữ bàn tay rửa sạch lau.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, GA 30/4/2020)


NGÀY MẸ XA CON

 

母別子,子別母,

白日無光哭聲苦。

Mẫu biệt tử, tử biệt mẫu,

Bạch nhật vô quang khốc thanh khổ.

Dịch:

Mẹ lìa con, con lìa mẹ,

Ban ngày không nắng khóc đau khổ.

(母別子 Mẫu biệt tử 母別子 • Mẹ lìa con - Bạch Cư Dị 白居易)


***

NGÀY MẸ XA CON

 

Ngày mẹ xa lìa cõi thế gian

Lòng con đau khổ khóc ly tan

Mẹ ơi đời vốn vô thường thế

Không sắc, sắc không chuyện rõ ràng

 

Con vẫn biết là sinh, trụ, diệt

Chao ôi! Mất Mẹ rất là đau

Chúng sinh vạn kiếp qua đi hết

Một cõi ta bà biết đến đâu?

 

Nhập thế một đời lo tu học

Tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng từ bi

Trăm kinh, nghìn quyển làu thông suốt

Mẹ dắt dìu con, mở lối đi

 

Mẹ đã lìa xa lũ chúng con

Mẹ ơi! Nước mắt cũng lưng tròng

Mẹ về cõi Phật xa xôi đó

Con vẫn ngồi đây ngóng mắt trông.

 

Ngày Mẹ xa con, mắt lệ mờ

Chao ơi con cứ ngỡ trong mơ

Hành hương Mẹ đến dăm chùa khác

Đâu biết Mẹ đi cõi mịt mờ.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, GA May 1st, 2020)


 

NGHĨ LÚC TUỔI GIÀ


少壯幾時奈老何,

向來哀樂何其多。

Thiếu tráng kỷ thì nại lão hà,

Hướng lai ai lạc hà kỳ đa.

Dịch:

Người trai trẻ đến khi già cả,

Nghĩ buồn vui sao đã mau qua.

(Mỹ Bi hành 渼陂行 – Đỗ Phủ 杜甫) 

***


NGHĨ LÚC TUỔI GIÀ

 

Thắm thoát thời gian như bóng câu

Cái già phút chốc đến càng mau

Sao vừa mái tóc lưa thưa bạc

Ngoảnh lại chao ơi bạc trắng đầu

 

Đã quá bẩy mươi, gần tám chục

Nghĩ mình còn ở tuổi thanh niên

Vẫn lái xuyên bang xe đông đúc

Đâu ngờ cơ thể mỏi liên miên


Mới biết khi già xe tuột dốc

Tuổi càng cao sức cũng lao nhanh

Lại thêm bệnh hoạn cùng đau nhức

Hành hạ liên miên chẳng thở than.

 

Tuổi trẻ đã qua, già đã đến

Cũng đành chấp nhận thế mà vui

Trong mùa đại dịch ngồi yên chỗ

Chẳng phải đi đâu thế cũng rồi.

 

Mơ ước quê xưa sạch bóng thù

Toàn dân được sống cảnh tự do

Yên tâm nhắm mắt về phương khác

Cũng sẽ an lòng một mối lo.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, GA May 1st, 2020)


CHIỀU BUỒN

 

黃昏獨立佛堂前,

滿地槐花滿樹蟬。

大抵四時心總苦,

就中腸斷是秋天。

(暮立 Mộ lập - Bạch Cư Dị 白居易

 

Hoàng hôn độc lập Phật đường tiền,

Mãn địa hoè hoa mãn thụ thiền.

Đại để tứ thời tâm tổng khổ,

Tựu trung trường đoạn thị thu thiên.

Dịch: Chiều một mình

“Trong bóng chiều buông trước Phật đường,

Hoa hoè rụng khắp, tiếng ve rân.

Bốn mùa vẫn chẳng nguôi thương nhớ,

Trời thu man mác thiết tha buồn.”

 

***


CHIỀU BUỒN


Chiều buồn, nắng tắt hắt hiu thôi

Mây trắng nhẹ trôi đến cuối trời.

Ta ngồi lặng lẽ trong hoang vắng

Mà nhớ hoàng hôn ở một thời.

 

Nhớ về quê cũ cánh đồng xa

Ruộng lúa mênh mông đến mượt mà

Con trâu nghé ngọ đường tre vắng

Lác đác cánh cò bay vút qua.

 

Xóm nghèo mái lá, tranh xơ xác

Cũng khiến ai kia bỗng nhớ nhà

Ngọn khói lam chiều vương man mác

Cho lòng lính chiến nhớ phương xa.

 

Đóng quân trong ấp mấy ngày qua

Hoa cúc nở vàng, em thướt tha

Thoăn thoắt luống hoa em tưới nước

Cho lòng lính chiến ước mơ xa.

 

Nhớ quá làng quê của thuở xưa

Êm đềm ngọn gió thật hiền hòa

Giặc đến phá tan bao mộng ước

Buổi chiều lặng lẽ, lòng giăng mưa.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, GA May 1st, 2020)


HOA CÚC TÀN THU

 

殘菊

 

露凝霜重漸傾欹,

宴賞才過小雪時。

蒂有餘香金淡泊,

枝無全葉翠離披。

半床落月蛩聲切,

萬里寒雲雁陣遲。

歲秋風知再會,

暫時分手莫相思。

 

Tàn cúc

Lộ ngưng sương trọng tiệm khuynh y,

Yến thưởng tài quá tiểu tuyết thì.

Đế hữu dư hương kim đạm bạc,

Chi vô toàn diệp thuý ly phi.

Bán sàng lạc nguyệt cung thanh thiết,

Vạn lý hàn vân nhạn trận trì.

Minh tuế thu phong tri tái hội,

Tạm thì phân thủ mạc tương ti (tư).

(Tàn cúc 殘菊 • Cúc tàn  Tào Tuyết Cần 曹雪芹)

 

Bản dịch của nhóm Vũ Bội Hoàng:

Móc đọng sương rơi luống phũ phàng,

Chén mừng tiểu tuyết tiết vừa sang.

Cuống vàng nhàn nhạt hương thoang thoảng,

Lá héo lơ thơ nhánh ngổn ngang.

Trăng xế nửa giường sâu rít giọng,

Mây đùn nghìn dặm nhạn thưa hàng.

Thu sau lại hẹn ta cùng gặp,

Tạm biệt xin lòng chớ vấn vương!

 

HOA CÚC TÀN THU

 

Hoa cúc trong vườn lúc cuối thu

Trời cao lãng đãng những sương mù

Én kêu xao xác trong chiều vắng

Lá rụng đầy sân, gió mịt mù…

 

Cúc hoa vàng rực buổi đầu thu

Run rẩy lắc lư đứng dưới mưa

Hoa bướm vui đùa cây với cỏ

Hết mùa ủ rũ buồn thâm u.

 

Cúc nở, cúc tàn vòng sinh tử

Con người có khác như hoa đâu

Cũng sinh, lão, bệnh rồi sang tử

Tuần tự chu kỳ chẳng khác nhau

 

Hãy sống hòa mình với tự nhiên

Buông xuôi, hỷ xả lúc sinh tiền

Tránh xa ác nghiệp bao đời kiếp

Tự khắc trong lòng sẽ bình yên.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, CA cuối Thu 2019)

 

HOA CÚC NỞ NHỚ NGÀY XƯA

 

滿紙自憐題素怨,

片言誰解訴秋心?

Mãn chỉ tự liên đề tố oán,

Phiến ngôn thuỳ giải tố thu tâm?

Dịch:

Mối hận ngấm ngầm đề chật giấy,

Lòng thu giãi tỏ biết chăng ai?

(Vịnh cúc 詠菊 • Tào Tuyết Cần 曹雪芹) (1)

 

***

HOA CÚC NỞ NHỚ NGÀY XƯA


Ngắm hoa cúc nở rộ trong sân

Mới biết mùa thu đã đến gần

Chợt nhớ những mùa thu thuở trước

Có nàng thu cũ vướng vào chân.

 

Chợ hoa Nguyễn Huệ nắng xuân sang

Đại đóa nằm bên chậu cúc vàng

Một nhánh gãy ngang trên mặt đất

Vướng giầy lính chiến khiến phân vân.


Áo trận xa nhà lạc chợ xuân

Bóng hồng thấp thoáng tưởng như gần

Khiến cho chiến sĩ lòng như ngỡ

Người đẹp bên hoa đã rất thân.

 

Từ giã thành đô nỗi nhớ nhung

Mang theo ra chiến trận mông lung

Khói lửa rực trời trên trận tuyến

Tưởng như pháo nổ đón mừng xuân.

 

Khói lửa bao lần, bao cách biệt

Nàng thu ngày ấy đã sang sông

Lính chiến lạc loài trên phố cũ

Ngẩn ngơ lạc bước, nhớ mông lung.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, GA Thu 2019)

 

(1) Tào Tuyết Cần 曹雪芹 (1715-1763) là một tiểu thuyết gia lớn người Trung Hoa, tác giả của cuốn tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, một trong tứ đại kỳ thư của văn học cổ Trung Hoa.


NHỚ XUÂN TÂY NINH

 

春宵一刻值千金,

花有清香月有陰。

Xuân tiêu  春宵

Xuân tiêu nhất khắc trị thiên câm (kim),

Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm.

Dịch nghĩa:

Đêm xuân, một khắc giá ngàn vàng,

Hoa có hương thơm trong lành, trăng có bóng.

Bản dịch của Nam Trân:

Đêm xuân một khắc đáng nghìn vàng,

Bóng nguyệt êm đềm, hoa thoảng hương.

 (Xuân tiêu 春宵 • Đêm xuân - Tô Thức 蘇軾, Tô Đông Pha, 蘇東坡) (1)

***


NHỚ XUÂN TÂY NINH

(Để nhớ đến bạn tôi cố Thiếu úy Nguyễn Viết Tường, Sĩ quan Không Ảnh/ Phòng 2 Tiểu Khu Tây Ninh)

 

Xuân trước hành quân chiến trận xa

Tây Ninh trong khói lửa nhạt nhòa

Tiểu khu pháo giặc ôi tàn phá

Tiếng súng rền vang trận tuyến xa.

 

Sang Thái Hiệp Thạnh ta vững bước

Mặt đường lỗ chỗ dấu đạn bom

Việt cộng rình quân ta mặt trước

Đâu dè trúng pháo chết tùm lum


Tính đi Bến Sỏi nhậu lai rai

Giặc cộng đắp mô ở chỗ này

Ghé ngang Cao Xá thăm thằng bạn

Gái Bắc kỳ trông xinh xắn thay.

 

Mùa xuân tiền tuyến cũng như không

Chiến trận rền vang pháo tiến công

Lũ giặc cuồng ngông vào chỗ chết

Làm bia cho lính bắn không ngừng.

 

Ngồi nhớ ngày xuân của thuở xưa

Lòng như chùng xuống ngỡ là mơ

Một thời chinh chiến điêu linh quá

Như thế mà thua, quá bất ngờ.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, GA Xuân Canh Tý 2020

 

(1) Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô.

 

 

MẮT LỆ CHO NGƯỜI

(Bài thơ mới tìm được trong thùng sách cũ)

 

Lệ • Nước mắt

永巷長年怨綺羅,

离情終日思風波。

湘江竹上痕無限,

峴首碑前洒幾多。

Lý Thương Ẩn  李商隱

Vĩnh hạng trường niên oán ỷ la,

Ly tình chung nhật tứ phong ba.

Tương giang trúc thượng ngân vô hạn,

Nghiễn thủ bi tiền sái kỷ đa.

Dịch nghĩa:

Suốt năm dài ở trong ngõ hẻm, oán giận lụa là

Cả ngày mang mối tình ly biệt nhớ khi sóng gió thuở nào

Trúc trên sông Tương giang biết bao nhiêu vết

Trước bia trên núi Nghiễn rơi bao nhiêu nước mắt

Bản dịch của Chu Thông:

Ngõ vắng năm trường mãi oán xuân

Biệt ly bão táp đã bao lần

Tương Giang trúc có bao nhiêu vết

Nghiễn Sơn bia ấy lệ còn ngân

(Lệ • Nước mắt - Lý Thương Ẩn 李商隱) (1)

***

MẮT LỆ CHO NGƯỜI

(Tặng bạn tôi nhà thơ Hoàng Lộc)

 

Ta nghe Vùng I đã lui quân

Hỗn độn kinh hoàng chạy mỏi chân

Giặc kia pháo kích vào dân chết

Ta nghĩ lo cho bạn quá chừng.

 

Trận chiến xem ra đã đến hồi

Được thua như thể chuyện đùa chơi

Quân ta thiếu thốn bao quân dụng

Đạn dược xăng xe cũng đã vơi.

 

Cũng bởi Hoa kỳ trò bội phản

Rút cầu, ngoảnh mặt, đâm sau lưng

Một thời ca tụng đồng minh đã

Chiến tuyến tự do quá lẫy lừng.

 

Tin bọn đồng minh thế mới đau

Giữa đường rút ván lối qua cầu

Còn làm sao được khi tay trói

Hết đạn làm sao ta đánh nhau?

 

Mong bạn ta rồi sẽ thoát thôi

Bình yên tìm được chỗ an vui

Gia đình hạnh phúc trong đoàn tụ

Để có một đời sống thảnh thơi.

 

Ta khóc khi nghe chuyện nước non

Buồn cho thiên mệnh chẳng vuông tròn

Chơi trò dâu bể, đời thay đổi

Mắt lệ cho người dạ héo hon.

 

VŨ UYÊN GIANG

Sài gòn Tháng 3 năm 1975

 

(1)Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc khê sinh 玉谿生, người Hà Nội, Hoài Châu (nay Tầm Dương, phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ, được giao du với các con của tể tướng Lệnh Hồ Sở, trong đó có Lệnh Hồ Đào.

(2)Hồng đậu có hột hình tròn, màu sắc tươi hồng, hình dạng đáng yêu, thường làm trang sức trên mái tóc phụ nữ. Người xưa lấy cây này biểu tượng cho tình yêu nên mới có tên là cây “tương tư”.

 

ĐƯỜNG RA BIÊN ẢI

 

Xuất tái khúc 出塞曲 • Khúc hát ra ải

Giả Chí 賈至

 

出塞曲

 

萬里平沙一聚塵,

南飛羽檄北來人。

 

Xuất tái khúc

Vạn lý bình sa nhất tụ trần,

Nam phi vũ hịch bắc lai nhân.

Dịch:

Vạn dặm bãi dài cát tụ đây,

Tòng quân Nam hịch bắc lên ngay.

 

***

ĐƯỜNG RA BIÊN ẢI 

 

Đường ra biên ải chập chùng xa

Lửa khói mịt mù nắng chói lòa

Bụi đỏ mù trời trên đất bạn

Quê nhà xa tắp tháng ngày qua

 

Rừng rực theo chân những Chiến đoàn

Hành quân Tây tiến đến Nam Vang

Áo giáp trên vai ta vững tiến

Diệt thù ngăn cộng khỏi làm càn.


Khói bếp nhà ai bay mỏng manh

Ta mơ khúc hát ở kinh thành

Những ngày êm ả tan chinh chiến

Ước vọng bình yên qua rất nhanh

 

Thốt nốt hàng cây như đứng im

Lâm thôn rộn rã tiếng ca êm

Nghe đâu tiềm thức xưa về lại

Một thuở nào xa trên xứ Chiêm.

 

Ôi đã một thời ta lính chiến

Gót giày dẫm đạp nẻo Cao Miên

Ngồi đây nhớ lại thời nguy biến

Uống rượu nhìn trời cao ngả nghiêng.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Bonaire, GA 5/5/2020 – Nhớ khi hành quân sang đất Miên)

 

 

UỐNG RƯỢU Ở TÂY NINH

 

Xuân tứ kỳ 2 春思其二  Giả Chí

 

春思其二

 

紅粉當壚弱柳垂,

金花臘酒解酴醾。

 

Xuân tứ kỳ 2

 

Hồng phấn đương lư nhược liễu thuỳ,

Kim hoa lạp tửu giải đồ my.

 

Dịch của Điệp luyến hoa

Trong quán má hồng, liễu nhả tơ,

Hoa vàng rượu lạt giải đồ my.

 

***

 

UỐNG RƯỢU Ở TÂY NINH

 

Biên trấn Tây Ninh xuân nhớ nhà

Giải sầu bia rượu nghĩ phương xa

Ta mềm môi uống cùng anh bạn

Từ chiến trường xa mới trở về.

 

Hãy uống cạn luôn chén rượu này

Mai ra chiến trận chết nào hay

Những thằng Việt cộng như đàn chuột

Lủi trốn trong hang nhục lắm thay.


Uống cho thằng bạn chết ngoài xa

Chinh chiến điêu linh thiệt chẳng ngờ

Gãy cánh giữa đường trên trận tuyến

Poncho bọc xác đất bạn kia.

 

Ta khóc khi nghe bạn đã ngừng

Trò chơi chiến trận vẫn chưa xong

Ôi thôi bạn đã ra đi trước

Bỏ lại mình ta mắt đã rưng.

 

Cuộc đời lính chiến ai mà biết

Chết sống chẳng qua một lỡ làng

Đạn nổ vang trời mù lửa khói

Tấm thân hèn mọn sẵn sàng buông.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, GA 6 tháng 5 năm 2020

Để nhớ khi ngồi uống bia với bạn tôi Chuẩn úy Nguyễn Trọng Thanh, Sư đoàn 25BB ở quán Kim 4 Tây Ninh năm 1974.

 

(1)        Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô.

 

TUỔI GIÀ NGHĨ VẨN VƠ

 

L’âge d’or de l’avenir

Tuổi vàng của tương lai

 

Afred de Vigny (1)

 

“Le rideau s’est levé devant mes yeux débiles,

La lumière s’est faite et j’ai vu ses splendeurs…”

Dịch:

Kéo rèm trước mắt ngu ngờ,

Tạo ra ánh sáng sắc màu lung linh…

 

***

 

TUỔI GIÀ NGHĨ VẨN VƠ

 

Tuổi hạc trời cho sống vẫn vui

Ngõ trúc chim đua hót thảnh thơi

Nhìn ra sân trước hoa đua nở

Đôi bướm chập chờn bên đóa tươi

 

Thược dược, hoa hồng trong nắng xuân

Dường như ong bướm cũng như gần

Tung tăng chú sóc chuyền cành lá

Nhảy nhót tưng bừng ở trước sân

 

Ta ở trong nhà lúc dịch tàu

Chung quanh hoang vắng có ai đâu

Giam thân cấm túc trong nhà ở

Anh bạn nhà bên lắc lắc đầu

 

Ta vẫn vui cùng cây với cỏ

Sân sau hoa trái cũng lưa thưa

Bưởi bòng chanh quýt hoa đang nở

Phượng vỹ năm sau chắc nở hoa.

 

Hy vọng trời cho ta được khỏe

Tuổi cao viết lách lấy làm vui

Nhớ bạn đôi vần thơ lếu láo

Mua vui bạn hữu thế mà thôi.

 

VŨ UYÊN GIANG

 

(1) Afred de Vigny (1797-1863) là nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch Pháp. Ông sinh tại Loches. Làm sĩ quan, ông dự trận Y-pha-nho (Espagne) ở Tây Ban Nha. Trung đoàn của ông đóng ở biên giới Pháp. Trong dịp này ông đã viết bài "Le cor" (Chiếc tù và), kể sự tích Roland tử trận. Ngay từ năm 1920, ông đã hoạt động cho phong trào lãng mạn. Năm 1922 ông xuất bản cuốn thơ đầu tiên. Sau năm 1830, ông quay về tiểu thuyết và kịch. Afred de Vigny được bầu vào Viện Hàn lâm năm 1845. Ông tạ thế tại Paris năm 1863, thọ 66 tuổi.


MÃI MÃI YÊU EM

Riêng tặng vợ hiền TRẦN MINH TÚ

 

 

Souvenir - Kỷ niệm

Alphonse de Lamartine (*)

 

Comme deux rayons de l'aurore,

Comme deux soupirs confondus,

Nos deux âmes ne forment plus

Qu'une âme, et je soupire encore !

 Dịch:

Như hai ánh bình minh

Hai làn hơi hoà trộn

Hai linh hồn đúc một

Tôi vẫn còn thở than

 

***


MÃI MÃI YÊU EM


Em đến bên đời anh mãi mãi

Chung lòng, chung cả những niềm vui

Trăng kia như thấy niềm ao ước

Trăng sáng đêm nay, sáng cả trời

 

Em và anh mãi nắm tay nhau

Đi đến nẻo xa khắp địa cầu

Trong tay hạnh phúc cùng ca hát

Vui ở kiếp này, cả kiếp sau. 

 

“Nếu có điều gì vĩnh cửu được” (1)

Anh sẽ cùng em sống trọn đời

Và sống tiếp muôn đời kiếp khác

Để đôi ta mãi trọn yêu thôi.

 

Em ạ, mong em luôn khỏe, vui

Cùng anh đi đến cuối chân trời

Nỗi buồn xin hãy quên đi hết

Chỉ để yêu dời, yêu mãi thôi.

 

VŨ UYÊN GIANG

Mother’s day 2020

 

(1)Mãi Mãi Bên Em: Nhạc và lời của Từ Công Phụng

“Nếu có điều gì vĩnh cửu được. Thì em ơi đó là tình yêu chúng ta…”

 

(*)Alphonse - Marie Prat de Lamartine (1790-1860), nhà thơ và nhà chính trị Pháp, nhiều lần đi du lịch nước ngoài (Italia, Trung Á), một thời gian ở trong đội cảnh vệ Hoàng gia. Cái chết của người yêu (Elvire) tháng 12/1817 là một cái tang lớn đối với ông. Nỗi đau khổ ấy ông đã gửi gắm vào  tập thơ đầu tiên Trầm tư (Meditations poétiques, 13/3/1820)


NGHE TIẾNG CHUÔNG CHÙA

 

遊普明寺

 

寥寥古鼎今何在,

識得無形勝有形。

Nguyễn Bỉnh Khiêm - 阮秉謙(1)

 

Du Phổ Minh tự (2)

Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại?

Thức đắc vô hình thắng hữu hình.

 Dịch nghĩa:

Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?

Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.

Dịch:

Vắng không, cổ đỉnh, rày đâu tá!

Mới biết vô hình thắng hữu hình.

 

***


NGHE TIẾNG CHUÔNG CHÙA


Chùa xa văng vẳng tiếng chuông ngân

Lãng đãng trời cao mây trắng ngần

Khóm trúc hiên nhà đang rũ bóng

Nhà ai sen nở thoảng hương sang.

 

Nhớ mái chùa quê ở đất xưa

Những chiều, những sáng tiếng ê a

Hồi kinh hồi hướng lan theo gió

Lay động hồn ai năm tháng qua.

 

Ngã Phật từ bi qua bến giác

Mở đường soi lối với hùng tâm

Mong sao trí dũng lòng không khác

Hải triều âm vọng cõi bình an

 

Quay đầu mới biết đâu là ngạn

Chìm đắm làm chi những khổ đau

Diệu đế cõi người không thể khác

Tu tâm, hành thiện mở đời sau.

 

Ôi tiếng chuông chùa thuở tuổi thơ

Còn nghe âm vọng đến bây giờ

Ngân nga trong gió nghe trầm lắng

Lắng đọng hồn ai trong giấc mơ

 

Xa lắm mái chùa cổ tích xưa

Rêu phong phủ kín dấu xa mờ

Chỉ còn dĩ vãng ngày xa cũ

Rụng xuống bên đời dăm tiếng thơ.

 

VŨ UYÊN GIANG

Phật Đản 2020

 

(1)Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 (1491-1585) huý là Văn Đạt 文達, tự Hanh Phủ 亨甫, hiệu Bạch Vân cư sĩ 白雲居士, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Xuất thân từ một gia đình trí thức Nho học, cha là Nguyễn Văn Định có văn tài, học hạnh. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con thượng thư Nhữ Văn Lan, thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Lớn lên, vào Thanh Hoá, theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng, được thầy truyền thụ môn học Dịch lý và sách Thái Ất thần kinh. Tuy học giỏi, nhưng lớn lên vào lúc xã hội loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn chí, đợi thời, không chịu ra thi. Mãi sau này, Mạc thay Lê, tình hình xã hội ổn định, ông mới ra ứng thi, đậu trạng nguyên (153…

(2)Chùa Phổ Minh (Phổ Minh tự 普明寺) ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, nay thuộc xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Chùa được xây dựng từ thời Trần, trong đó có vạc Phổ Minh nổi tiếng. Vạc đã bị quân xâm lược Minh phá làm súng đạn năm 1426, khi bị nghĩa quân Lam Sơn bao vây.


HÀNH QUÂN Ở TRẢNG BÀNG


Nhớ thuở hành quân xứ Trảng Bàng

Quân ta hừng hực tấn công sang

Phá tan chốt giặc An Ninh xã

Rồi đến dừng chân ở Lộc Giang.

 

Ta vào thăm lại Ấp An Hòa

Xóm đạo Tha La ở chỗ kia

Một thời áo tím cài hoa trắng (1)

Như đã phai tàn những chuyện xưa.

 

Cô gái Tha La thật dễ thương

Thẹn thùng ánh mắt ngó mung lung

Khiến tim chiến sĩ càng xao xuyến

Chết giấc hồn ai nỗi vấn vương?

 

Lính chiến dừng quân được mấy ngày

Gặp em chẳng muốn bước đi ngay

Nhưng quân lệnh xuống làm sao được

Nên hẹn mùa sau ở chốn này

 

Cuộc đời như nước cuốn bèo trôi

Anh mãi là người lính chiến thôi

Nay vùng Bến Thế, mai Long Khánh

Ngày khác Long An chân rã rời

 

Quay lại Tha La buổi cuối đông

Người xưa giờ đã bỏ sang sông

Ôi người lính chiến chân phiêu lãng

Buồn đứng bên đường mãi ngóng trông.

 

VŨ UYÊN GIANG

Nhớ về Tha La Xóm Đạo, Trảng Bàng, Hậu Nghĩa

 

TUỔI GIÀ NHỚ CHUYỆN XƯA

 

賜沈德潛        Tứ Thẩm Đức Tiềm

 

老來底越精神健,Lão lai để việt tinh thần kiện,

劫外胎禽雪裏筠。Kiếp ngoại thai cầm tuyết lý quân.

Ái Tân Giác La Hoằng Lịch - 愛新覺羅弘

 (Càn Long, Thanh Cao Tông) (1)

 

Bản dịch của Nguyễn Trung Tri

Về già lại thấy càng minh mẫn

Kiếp trước tre dầm tuyết hoá thân

 

***

TUỔI GIÀ NHỚ CHUYỆN XƯA


Người già hay nhớ chuyện ngày xưa

Tuổi tác càng cao cứ tưởng đùa

Truyện cũ kể nghe sao vanh vách

Cứ như câu chuyện mới vừa qua.

 

Trời cho trí óc còn minh mẫn

Nhớ lại một thời thuở chiến chinh

Chân đạp tây chinh trên đất bạn

Quay về đuổi giặc ở Tây Ninh

 

Rừng núi miền đông ngăn cộng phỉ

Một thời chinh chiến rất điêu linh

Máu xương tuổi trẻ ôi hoang phí

Lũ giặc gây bao chuyện bất bình.


Bắt sống Ba Mai ở Trảng Bàng (2)

Bám chân Biệt động bọn làm càn

Chất nổ Tự Do quân quấy phá

Mười Kiều căn cứ phải tang hoang

 

Những chuyện ngày xưa giờ mới kể

Coi như ôn lại tháng năm qua

Những thằng lính chiến ngành Quân báo.

Đánh giặc âm thầm như bóng ma.

 

VŨ UYÊN GIANG

7 tháng 5 năm 2020

 

(1)   Hoằng Lịch (1711-1799) tức hoàng đế Càn Long 乾隆, Thanh Cao Tông 清高宗, họ Ái Tân Giác La 愛新覺羅, huý Hoằng Lịch, là người con trai thứ tư của hoàng đế Ung Chính và là hoàng đế thứ tư của nhà Thanh, Trung Hoa. Thời kỳ trị vì của ông kéo dài hơn 60 năm từ 18-10-1735 đến 9-2-1796, và là thời cực thịnh về kinh tế và quân sự của nhà Thanh.

(2)   Ba Mai: tên thật là Mai Văn Sổ, Cụm trưởng Cụm X.10 Quân Báo (xin đọc truyện Bắt Sống Ba Mai ở Xã An Tịnh, Quận Trảng Bàng trong Tập truyện Phi Vụ Bí Mật Trên Đất Thái Lan của Vũ Uyên Giang do Văn Học Mới xuất bản năm 2021)


NHỚ BUỔI UỐNG RƯỢU

TRÊN BALCON EAGLE HOUSE Ở ARANYA PRATHET

(Tặng Lê Văn Tống, Trần Minh Ngọc, Trương Long, Nguyễn Kim Quang)

 

Hoàng Hạc lâu 黃鶴樓 

Nguyễn Trung Ngạn - 阮忠 (1)

 

猛拍欗杆還自傲,

江山奇絕我茲遊。

Mãnh phách lan can hoàn tự ngạo,

Giang sơn kỳ tuyệt ngã tư du.

Dịch:

Hứng lên gõ mạnh lan can,

Non sông thắng tích ta sang đây rồi!

***

NHỚ BUỔI UỐNG RƯỢU

TRÊN BALCON EAGLE HOUSE Ở ARANYA PRATHET

 

Từ độ xa quê ôm nhớ thương

Bọn ta năm đứa sống lưu vong

Mảnh đất Aran ngồi uống rượu

Tưởng là câu chuyện rất hoang đường

 

Mềm môi rượu đắng, lòng cay đắng

Đã mất quê hương năm bảy lăm

Quê cũ không là quê cũ nữa

Chừng như nuốt nghẹn mối hờn căm.

 

Hoàng hạc lầu kia ở chốn nao

Ta nghe nghiệt ngã cũng tuôn trào

Ngồi đây uống rượu sao mà nhớ

Một thuở nào xưa đến nghẹn ngào.

 

Biệt xứ tha hương vẫn gặp nhau

Mấy chung rượu nhạt lại thêm sầu

Tủi đời viễn xứ thân phiêu bạt

Như có trong lòng vạn nỗi đau.

 

Gõ chén mà ca khúc đoạn trường

Lệ rơi lã chã nỗi bi thương

Chao ơi! Nước mất lòng tan nát

Ngồi nhơ quê xa tủi ngập lòng.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Nhớ lúc ngồi trên lầu Eagle House ở Aran uống rượu)

(1)Nguyễn Trung Ngạn 阮忠 (1289-1370) tự Bang Trực 邦直, hiệu Giới Hiên 介軒, sinh tại làng Thọ Hoàng, huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Trung Ngạn từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, nổi tiếng thần đồng. Năm 15 tuổi (1304) ông đã đỗ hoàng giáp đời vua Trần Anh Tông, có trong tay bằng tiến sĩ (cùng khoa với Mạc Ðĩnh Chi), năm 24 tuổi được làm Giám quân, năm 28 tuổi đi sứ nhà Nguyên. Tính ông cương trực, tài kiêm văn võ, có nhiều đóng góp cho công việc xây dựng và bảo vệ đất nước lúc bấy giờ. Ông phò tá Vua Trần Minh Tông trong các chiến dịch bình định vùng Đà Giang và dẹp loạn ở Lào. Trong cuộc đời làm quan qua năm đời vua triều Trần, ông từng được phong Đại học sĩ Trụ quốc Hướng huyện bá, Thiếu bảo Khai quốc nội hầu,... cuối cùng làm đến chức Ðại hành khiển tước Thân quốc công, thọ 82 tuổi.

 

ANH HÙNG VÀ RƯỢU

 

“…Chúng mình nhậu để trừ hao

Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng

Mùa này gió núi mưa bưng

Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan

Mùa này gió bãi mưa ngàn

Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà…”

Nguyễn Bắc Sơn – Một Tiếng Đồng Hồ Trước Khi Lên Đường Hành Quân) (1)

 

*** 

ANH HÙNG VÀ RƯỢU

 

Này anh bạn hãy nhắp thêm ly nữa

Cuộc chiến này coi bộ vẫn còn dài

Quay mặt lại xem ván bài sấp ngửa

Có còn không khi lỡ dở hình hài

 

Xem cuộc chiến vẫn theo ta thêm nữa

Xá gì đâu chút lẻ tẻ vài ly

Hãy uống tiếp trước khi ta lên ngựa

Lao mình vào chiến trận chẳng suy bì

 

Chân vẫn bước trên dặm đường sinh tử

Súng cầm tay, áo giáp vẫn xông pha

Núi rừng kia, muôn kiếp vẫn là nhà

Xin cứ uống và uống thêm chén nữa.

 

Anh hùng mạt vận cần chi lon lá

Giữa nhục vinh vẫn giữ một hình hài

Vẫn hăng say chiến đấu mãi không lui

Thằng giặc cộng rình mò như chuột lắt.

 

Trong chiến trận ta trừng trừng con mắt

Ngó sao trời cao vút chín từng mây

Xé màn đêm heo hút giữa đêm dài

Lòng có rượu nên chẳng hề chết nhát.

 

VŨ UYÊN GIANG

(Nhớ thuở Chiến trường xưa)


(1)Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn sinh năm 1944 tại Phan Thiết, ông tên thật là Nguyễn Văn Hải, qua đời ngày 4 tháng 8 năm 2015, cũng tại Phan Thiết. Trước năm 1975, ở miền Nam, ông chỉ xuất bản một tập thơ duy nhất, Chiến tranh Việt Nam và tôi (1972); sau năm 1975, sống trong nước, ông cũng chỉ in được một tập thơ, Ở đời như một nhà thơ Đông Phương (1995), trong đó có khá nhiều bài thơ đã in trong tập thơ đầu.

  

ĐỌC THƠ NGƯỜI XƯA CẢM THÁN

 

Tự thuật kỳ 2 自述其二

Bùi Hữu Nghĩa 裴有義(1)

霜鬢傷遲暮,Sương mấn thương trì mộ,

消愁酒一樽。Tiêu sầu tửu nhất tôn.

Dịch:

Thấy tóc sương mà thương đời ta tàn lụi,

Để tiêu sầu uống rượu để mà vui.

 

***

 

ĐỌC THƠ NGƯỜI XƯA CẢM THÁN

 

Nhìn tóc bạc phơ người thấy buồn

Phong trần ta cũng trắng như sương

Cũng ngồi uống rượu vui bằng hữu

Viễn xứ lưu vong ta tứ phương

 

Ngẫm lại ta buồn nhiều như thế

Ông không mất nước lấy gì đau?

Ta ngồi ôm mối sầu vô hạn

Thử hỏi làm sao ta giống nhau?

 

Mối hận đau lòng không nói được

Khi không bỗng chốc thế mà thua

Phải chi thua bởi vì ta nhát

Cũng chẳng khiến lòng ta nhói đau

 

Đánh trận mà hai tay bị trói

Đồng minh hèn hạ lén đâm sau

Đánh đấm làm sao khi phản bội

Trò đuà sinh tử chẳng ra sao.

 

Ta ngỡ loài người ai cũng thật

Tin lầm điếm thúi sở khanh kia

Bởi thế mà ta thua sạch túi

Thua luôn đất nước tủi lia chia

 

Chén rượu uống vào như giọt đắng

Mềm môi cũng chẳng hết u sầu

Đốt bao oan nghiệt bao đau khổ

Cũng chẳng khi nào hết nỗi đau

 

VŨ UYÊN GIANG

(1)Bùi Hữu Nghĩa 裴有義 (1807-1872) hiệu là Nghi Chi, người làng Long Tuyền, Bình Thuỷ, tỉnh Cần Thơ. Ông đỗ giải nguyên trường hương Gia Định năm 28 tuổi (1835, Minh Mạng 16) nên thường gọi là thủ khoa Nghĩa. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Tồn, con ông Nguyễn Văn Lý, là người mà ông Nghĩa ở trọ học.


 

MIỀN NAM TRONG CẢNH TỰ DO

 

輓聖宗純皇帝Vãn Thánh Tông Thuần hoàng đế

(Vua Lê Thánh Tông - 黎聖宗)

南國生靈又太和,

巍巍三紀御邦家。

Bùi Phổ - 裴普 (1)

Nam quốc sinh linh hựu thái hoà,

Nguy nguy tam kỷ ngự bang gia.

Dịch nghĩa

“Sinh linh nước Nam hưởng cảnh thái hoà

Nhờ có ba mươi sáu năm sừng sững, trông coi đất nước…”

 

***

MIỀN NAM TRONG CẢNH TỰ DO

  

Đất nước Việt Nam xứ Cộng Hòa

Người dân được vui sống tự do

Hòa bình, hạnh phúc trong êm ấm

Một dải giang sơn chẳng phải lo

 

Miền Nam đang trong cảnh thái hòa

Việt cộng rừng sâu bỗng kéo về

Mang theo kinh sợ hãi hùng quá

Giết hại dân lành thật thảm thê

 

Hòn Ngọc Viễn Đông đã một thời

Thủ đô hoa lệ cảnh xinh tươi

Là niềm mơ ước bao dân bạn

Được giống Việt Nam thế mới vui.


Dân tình thế thái sống bình yên

Thẳng cánh cò bay ruộng mọi miền

Ao sâu kinh rạch nhiều tôm cá

Hiếu khách vô cùng đến tự nhiên.

 

Không lo không nghĩ vô tư sống

Sáng sáng cà phê, tôi nhậu chơi

Cải lương vọng cổ cùng ca hát

Cuộc sống thanh bình sao thảnh thơi

 

Quỷ đỏ từ phương Bắc kéo vào

Đạn mìn hung bạo ác làm sao

Gây bao tang tóc bao hờn oán

Chết chóc điêu linh lệ nghẹn ngào.

 

VŨ UYÊN GIANG 

(1)Bùi Phổ 裴普 (1443-?) người xã Lê Xá, huyện Nghi Dương, đạo Hải Dương (nay thuộc tỉnh Nam Định). Năm 25 tuổi, đỗ Chính tiến sĩ khoa Đinh Mùi Hồng Đức thứ 18 (1487). Khoa ấy có 16 người đỗ tiến sĩ, trong đó có Nguyễn Đức Huấn, Nguyễn Bảo Khuê, Ngô Hoan, Đoàn Huệ Nhu, Đỗ Thuần Thông, sau này tham gia Hội Tao Đàn. Sau Bùi Phổ làm quan đến Hàn lâm viện hiệu lý.

 

ĐỌC THƠ VUA LÊ THÁNH TÔNG

 

Bài thơ cuối cùng trước khi chết của Vua Lê Thánh Tông

Ngày 17 tháng 11 âm lịch năm 1496, niên hiệu Hồng Đức thứ 27, Vua Lê Thánh Tông bắt đầu không khỏe; trong một thời gian sau đó ông vẫn xét đoán việc chính sự. Đến ngày 29 tháng 1 âm lịch (2 tháng 3 dương lịch) năm 1497, bệnh của ông bất ngờ trở nặng. Nhà vua ngồi tựa ghế ngọc, chỉ định Hoàng thái tử Lê Tranh kế nghiệp. Giờ Thìn ngày hôm sau, 30 tháng 1 âm lịch (3 tháng 3 dương lịch), Lê Thánh Tông qua đời ở điện Bảo Quang, hưởng thọ 56 tuổi. Trước khi mất, ông có để lại một bài thơ tự thuật:

 

    自述  Tự thuật

    五十年華七尺軀,

    剛腸如鐵卻成柔。

    風吹窗外黃花謝,

    露浥庭前綠柳癯。

    碧漢望窮雲杳杳,

    黃梁夢醒夜悠悠。

    蓬萊山上音容斷,

    冰玉幽魂入夢無。

(Vua Lê Thánh Tông - 黎聖宗)

    Tự thuật

    Ngũ thập niên hoa thất xích khu,

    Cương trường như thiết khước thành nhu.

    Phong xuy song ngoại hoàng hoa tạ,

    Lộ ấp đình tiền lục liễu cù.

    Bích hán vọng cùng vân diểu diểu,

    Hoàng lương mộng tỉnh dạ du du.

    Bồng Lai sơn thượng âm dung đoạn,

    Băng ngọc u hồn nhập mộng vô.

 Bản dịch:

    Năm chục hoa niên bảy thước thân,

    Lòng như sắt cứng bỗng mềm dần.

    Gió lay khô héo hoa bên cửa,

    Sương dãi gầy mòn liễu trước sân.

    Trời biếc xa trông, mây thăm thẳm,

    Kê vàng tỉnh giấc đối bâng khuâng.

    Khuất lời cách mặt, non Bồng vắng,

    Băng ngọc du hồn nhập mộng chăng?

***

 

ĐỌC THƠ VUA LÊ THÁNH TÔNG

Đọc bài thơ cuối cảm thương ông

Tuổi tác chưa cao đã giá băng

Năm sáu (56) tuổi đời chưa phải thọ

Đức tài ông để lại ngàn năm

 

Nghiệp bút văn thơ bậc trí hiền

Ca ngâm xướng họa cảnh thần tiên

Dựng xây Văn Miếu, Tao Đàn hội

Tiến sĩ đặt bia lưu vạn niên

 

Ông cũng hiên ngang dựng cõi bớ

Tây chinh, Nam tiến mở cơ đồ

Bắc biên giữ vững yên bờ cõi

Giáo dục nâng cao chẳng phải lo.

 

Sự nghiệp của ông để lại sau

Kho tàng quý báu mãi bền lâu

Nghìn năm gương sáng soi kim cổ

Nhân thế đời sau cũng cúi đầu.

 

Ba sáu năm ngồi nghiệp đế vương

Giã từ thần tử để lên đường

Về nơi cõi khác xa trền thế

Rực rỡ muôn đời Lê Thánh Tông.

 

VŨ UYÊN GIANG

 

VỊNH HẠ LONG

 

An Bang phong thổ 安邦灃土 (1)

Lê Thánh Tông - 黎聖宗 (2)

 

安邦灃土

 

海上萬峰宭玉立,

星羅奇布翠崢嶸。

魚鹽如土民趍便,

鏵稻無田賦薄征。

 

An Bang phong thổ

Hải thượng vạn phong quần ngọc lập,

Tinh la kỳ bố thuý tranh vanh.

Ngư diêm như thổ dân xu tiện,

Hoa đạo vô điền phú bạc chinh.

Dịch nghĩa

Muôn ngọn núi nổi trên mặt biển trông như những viên ngọc đẹp

La liệt như những vì sao, những quân cờ, chênh vênh một màu xanh biếc

Cá muối nhiều như đất, nhân dân đua theo nghề đó rất tiện lợi

Ruộng không cấy lúa cho nên thuế má nhẹ

***

VỊNH HẠ LONG

 

Những núi nhấp nhô nổi bập bềnh

Như trôi trên biển rất lênh đênh

Hang luồn khe núi bao là động

Thạch nhũ hang sâu lối gập ghềnh

 

Kìa đảo con gà đứng kế bên

Đầu người như cũng nổi lên trên

Chênh vênh vách đá nghìn cây mọc

Dưới nước nhẩn nha những chiếc thuyền

 

Ta đến thăm đây buổi nắng hè

Biển xanh, mây trắng bóng cây che

Gió mát buổi trưa êm dịu quá

Vào xem sửng sốt lội qua khe.

 

Cảnh sắc thiên nhiên thật hữu tình

Trên thuyền ta ngắm cảnh bình minh

Mênh mông sương mỏng qua khe núi

Lòng thấy bình yên giữa lặng thinh

 

Tạo hóa dựng nên đẹp ngỡ ngàng

Ngàn năm đảo vẫn đứng hiên ngang

Trải bao dâu bể, bao thay đổi

Vòng xoáy thời gian vẫn chẳng màng.

 

VŨ UYÊN GIANG

Hang luồn, đầu người, con gà, thạch nhũ, sửng sốt là tên các đảo hoặc hang động.

 

(1)An Bang là tên lộ thời Hồng Đức, nay là vùng Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

(2) Lê Thánh Tông 黎聖宗 (20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442 – 30 tháng 1 năm Đinh Tỵ 1497), huý Lê Tư Thành 黎思誠, còn có huý khác là Lê Hạo 黎灝, là vị vua thứ năm thời Lê sơ và là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông và bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Trong lúc trị vì, ông đã đưa ra nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông cũng đã mở mang bờ cõi nước Đại Việt bằng cách đánh chiếm thủ đô của nước Chiêm Thành, sát nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước. Ông trị vì từ năm 1460 đến lúc mất, và được nhiều nhà sử học đánh giá là một trong những vị vua tài ba trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn hóa và là người coi trọng người hiền tài. Thụy hiệu do vua Lê Hiến Tông đặt là Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu Thuần Hoàng Đế.

 

QUA SÔNG VÀM CỎ ĐÔNG

 

Bạch Hạc giang trung 白鶴江中 • Trên sông Bạch Hạc

 

白鶴江中

只愛肝腸生鐵石,

豈將頭角怨羲娥。

此行塵事關心少,

惟有東流感慨多。

Lê Thánh Tông 黎聖宗

 

Bạch Hạc giang trung

Chỉ ái can trường sinh thiết thạch,

Khởi tương đầu giác oán hi nga.

Thử hành trần sự quan tâm thiểu,

Duy hữu đông lưu cảm khái đa.

Dịch nghĩa

Chỉ quý ở chỗ tính cách cứng rắn như sắt đá,

Lẽ nào lại đem tài năng oán trách đất trời.

Chuyến đi này ta ít quan tâm đến việc thế tục,

Chỉ có dòng nước cuồn cuộn chảy về đông kia làm ta xúc cảm nhiều.

Dịch:

Chỉ quý lòng son như sắt đá,

Há vì tài mọn oán trời cao.

Chuyến này việc thế quan tâm ít,

Cuồn cuộn dòng đông cảm khái nhiều.

 

***

QUA SÔNG VÀM CỎ ĐÔNG

 

Nhớ chuyến hành quân Vàm Cỏ Đông

Nước sông lờ lững chảy xuôi giòng

“Đám lá tối trời” ngươi ẩn nấp

Bèo Kinh Trà Cú nổi bềnh bồng.

 

Giang thuyền lướt sóng trên sông rạch

Săn bắt cộng thù lẩn quất kia

Lính chiến vào vườn thơm Lý Mạnh (1)

Mấy thằng giặc cỏ trốn lia chia.

 

Vàm Cỏ năm nào ta tiến quân

Chao ơi tôm cá nổi lềnh bềnh

Tôm càng lính vớt cho ta nhậu

Rượu uống vài ly không nhát gan

 

Sóng vỗ mạn thuyền ta hát ca

Một thân lính chiến mãi xa nhà

Lao vào hung hiểm trong bom đạn

Rôi cũng ngâm bài chính khí ca.

 

VŨ UYÊN GIANG

(1)        Vườn thơm Lý Văn Mạnh ở Đức Hòa

 

 

NỖI NHỚ QUÊ XA

 

 

 

Chợt thấy lòng buồn như nghĩa trang

Chao ơi! Giòng lệ chảy hai hàng

Nỗi sầu thiên cổ trong tiền kiếp

Rơi xuống thành thơ tiếng thở than.

 

Ngồi đây nhớ đến tháng ngày qua

Một chút ưu tư đến tuổi già

Tóc trắng phất phơ chiều gió lộng

Nghe đâu một thoáng cũng phôi pha

 

Gặm nhấm hồn ta một sũng buồn

Chao ơi giọt lệ cũng rơi tuôn

Tiếc thân viễn xứ lòng se sắt

Tít tắp phương xa ôi cố hương.

 

Nhớ mãi ngày xưa dưới nắng tà

Cánh đồng xanh mướt tận ngoài xa

Cò bay thẳng cánh, chim xao xác

Vắt vẻo mình trâu chú bé kia

 

Xa quá quê hương khuất nẻo tìm

Bóng hình quê cũ mãi trong tim

Mơ về đất mẹ lòng chua xót

Dõi mắt buồn trông bóng dáng chim.

 

VŨ UYÊN GIANG

 

 

 

 

ĐÊM NẰM TRÊN ĐẤT ĐỊCH

 

(Tặng anh Trần Đức Nhã và Hồ Văn Mẫm để nhớ lúc hành quân ở Bến Thế, Bình Dương phối hợp cùng 1 đơn vị thiết giáp của Mỹ)

 

Chu Nguyên Chương - 朱元璋 (Minh Thái Tổ) (1)

無題 Vô đề

 

夜間不敢長伸腳,

恐踏山河社稷穿。

Dạ gian bất cảm trường thân cước,

Khủng đạp sơn hà xã tắc xuyên.

 

Dịch:

Đêm dài chả dám đưa chân duỗi,

Chỉ sợ non sông bị vỡ tan.

 

***

 

 

ĐÊM NẰM TRÊN ĐẤT ĐỊCH

 

Thiết giáp rừng cây rộng bạt ngàn

Đi vào Bến Thế buổi đầu xuân

Ta ngồi vắt vẻo trên xe ngó

Vừa uống bia mà vẫn tiến quân.

 

Tiến chiếm mục tiêu quá dễ dàng

Cộng quân như vịt bị tan đàn

Chém vè chạy trốn trong rừng thẳm

Anh bạn đồng minh đứng thở than

 

Lính trẻ Hoa kỳ ở thật xa

Đến đây chiến đấu tưởng chơi đùa

Mới nghe tiếng súng run cầy sấy

Cúi mặt, ôm đầu khóc chết cha

 

 

Đêm xuống đóng quân ở giữa rừng

Hỏi thăm lính Mỹ hãy còn run

Ôi chao lính mới chưa kinh nghiệm

Chỉ nghĩ thôi mà nước mắt rưng.

 

“Nếu ta lỡ chết vì say rượu (2)

Nào có xá gì bỏ cuộc vui

Hãy uống dăm lon cho đỡ sợ

Nghe ra cũng có chút bùi ngùi.

 

Nằm trong đất địch ngắm sao trời

Cũng thấy lòng như chút ngậm ngùi

Thương bao bạn hữu đời chinh chiến

Máu đổ xương rơi cũng thế thôi.

 

VŨ UYÊN GIANG

 

(1) Chu Nguyên Chương 朱元璋 (1368-1398) tức Minh Thái Tổ 明太祖, thuở nhỏ tên là Trùng Bát 重八, về sau đổi tên thành Hưng Tông 興宗, tên chữ là Quốc Thụy 國瑞, người huyện Chung Ly, Hào Châu (phía đông huyện Phụng Dương, tỉnh An Huy ngày nay), là hoàng đế khai quốc của vương triều Minh trong lịch sử Trung Hoa, trên ngôi vua từ năm 1368 đến 1398, niên hiệu Hồng Vũ 洪武, miếu hiệu Thái Tổ 太祖, thuỵ hiệu là Cao Hoàng đế 高皇帝.

(2)Trích thơ Nguyễn Bắc Sơn trong bài Mật Khu Lê Hồng Phong. Nguyễn Bắc Sơn tên thật là Nguyễn Văn Hải sinh năm 1944 tại Phan Thiết đã qua đời ngày 4 tháng 8 năm 2015 ở VN. Tác phẩm đã xuất bản: Chiến tranh Việt Nam và tôi (1972); sau năm 1975, sống trong nước, ông cũng chỉ in được một tập thơ, Ở đời như một nhà thơ Đông Phương (1995)

 

 

 

 

 

ĐÊM XUÂN NHỚ BẠN CHIẾN TRƯỜNG XƯA

 

Xuân dạ 春夜

Đêm xuân Vương An Thạch 王安石 (1)

 

春夜

金爐香盡漏聲殘,

剪剪輕風陣陣寒。

 Xuân dạ

Kim lô hương tẫn, lậu thanh tàn,

Tiễn tiễn khinh phong trận trận hàn.

Dịch nghĩa

Hương trong lò vàng đã hết, tiếng giọt đồng hồ cũng tàn,

Gió nhẹ từng cơn lạnh như cắt.

Bản dịch của Điệp luyến hoa:

Lò vàng hương hết, tiếng canh tàn,

Vi vút từng cơn gió lạnh tràn.

 

***

 

ĐÊM XUÂN NHỚ BẠN CHIẾN TRƯỜNG XƯA

 

Từ giã chiến trường đã rất lâu

Đêm xuân nhớ bạn bỗng dưng sầu

Một thời chinh chiến vòng nguy hiểm

Chén rượu quan hà kịp uống đâu.

 

Mày đi Quảng Trị mù xa tắp

Tao ở Tây Ninh cũng chẳng yên

Pháo giặc mỗi ngày ôi sấp mặt

Dưới hầm tránh đạn chẳng hề than.

 

 

 

 

 

 

Đạn dược xăng xe đều chẳng đủ

Mỗi ngày đạn pháo chỉ 2 viên

Còn xăng lít rưỡi sao mà chạy?

Đề máy không thôi đã sạch trơn.

 

Đánh giặc hai tay như bị trói

Hỏi sao mà đánh trận này đây?

Chúng ta sinh giữa thời chinh chiến

Chấp nhận hy sinh thật chẳng may.

 

Xuân đến, tao ngồi uống rượu suông

Nhớ mày thuở trước thật là thương

Thẹn thùng như thể là con gái

Từ giã trường xưa đến chiến trường.

 

Bỡ ngỡ lao vào cuộc chiến tranh

Đem thân giúp nước cũng không thành

Hy sinh tuổi trẻ trong oan nghiệt

Nước mắt nào rơi, dạ chẳng đành.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, GA – Xuân Canh Tý 2020

Ngồi nhớ bạn xưa

 

(1) Vương An Thạch 王安石 (1021–1086) tự Giới Phủ 介甫 hiệu Bán sơn lão nhân 半山老人, người ở Phủ Châu, Lâm Xuyên (tỉnh Giang Tây ngày nay), là một nhà văn lớn thời Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Hoa.

 

 

 

 

 

XUÂN ĐI NGẪM CHUYỆN TUỔI GIÀ

 

送春詞   TỐNG XUÂN TỪ - Vương Duy 王維

日日人空老,Nhật nhật nhân không lão

年年春更歸。Niên niên xuân cánh quy

 

DỊCH NGHĨA: LỜI TIỄN XUÂN

Ngày qua ngày, người cứ già đi

Năm qua năm, xuân lại về

 

Bản dịch

Người cứ già đi ngày mỗi ngày

Mỗi năm xuân lại trở về đây

 

***

 

XUÂN ĐI NGẪM CHUYỆN TUỔI GIÀ

 

 

Xuân đến già thêm lại thấy buồn

Nhìn da nhăn nhúm nghĩ mà thương

Tóc bạc phơ phơ như tuyết trắng

Tuổi trời như hạc ở đầu non

 

Lụm khụm bước đi xương nhức buốt

Lom khom cúi xuống cũng than đau

Ngồi lâu mỏi cổ thêm mờ mắt

Càng nghĩ càng nghe nhức cả đầu

 

Con cái ở xa không gần gũi

Vợ chồng già sống tựa nương nhau

Sao cho hết kiếp vòng sinh tử

Cùng nắm tay nhau đến cõi sau

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Xuân vẫn cứ về mang tuổi mới

Nghĩ mà thương cái phận người già

Lủi thủi ra vào đâu có vội

Âm thầm đếm những tháng ngày qua.

 

Xuân đi thôi thế hết còn xuân

Như tuổi già kia đất cũng gần

Còn sống bao lâu mong được khỏe

Có về cõi khác chẳng phân vân.

 

VŨ UYÊN GIANG

 

 

 

NHỚ THÀNH QUÁCH CŨ

(Để nhớ các bạn tôi đã cùng chiến đấu cho Miền Nam tự do)

 

 

 

Bạch Đế thành hoài cổ 白帝城懷古 • Ở thành Bạch Đế nhớ chuyện xưa

 

白帝城懷古

 

川途去無限,

客思坐何窮。

Trần Tử Ngang 陳子昂

 

Bạch Đế thành hoài cổ

Xuyên đồ khứ vô hạn,

Khách tứ toạ hà cùng.

Dịch nghĩa

Đường sông còn dài vô hạn,

Ý của người ngồi trong thuyền không cùng.

 

 

***

 

 

NHỚ THÀNH QUÁCH CŨ

 

 

 

Thành quách rêu phong phủ bụi mờ

Thời gian phai dấu chiến trường xưa

Binh đao lửa khói bao oan nghiệt.

Dâu bể cơ hồ một giấc mơ.

 

 

 

 

 

 

 

 

Cổ thành Quảng Trị bao hung hiểm

Thịt nát xương tan ở chốn này

An Lộc ngày nào ta gãy kiếm

Hồn xưa nương gió khói mây bay.

 

Không ai mạc mặt anh hùng tử (1)

Chẳng khói hương theo để gọi hồn (1)

Da ngựa người xưa còn bọc xác

Áo bào chính chiến lệ rơi tuôn

 

Lặng lẽ bên thềm hoang giá lạnh

Ôi hồn tử sĩ có vương mang

Nỗi sầu mất nước trong cô quạnh

Hãy nhớ về nương gió khóc than

 

Hỡi người chiến sĩ của Miền Nam

Giặc cộng tham tàn lũ bất nhân

Khi không bỗng chốc thành thua trận

Sầu hận trong đời nỗi thở than.

 

Chiến trận ngày nao phủ bụi mờ

Trong cơn binh lửa tưởng là mơ

Ôm bao hoài vọng cho dân, nước

Tay trắng cuối đời vẫn ngẩn ngơ.

 

VŨ UYÊN GIANG

May 19th, 2020

(1) Chinh phụ ngâm: Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.

Thành Bạch Đế do Công Tôn Thuật xây rồi xưng đế khi Vương Mãng tiếm ngôi nhà Tây Hán, di tích nay trong huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên.


ĐỌC THƠ CỤ PHAN CẢM THÁN


Giai nhân kỳ ngộ cảm đề 佳人奇遇感題

• Cảm đề khi đọc truyện “Giai nhân kỳ ngộ”

Phan Chu Trinh

佳人奇遇感題

 

歐亞風潮撼五洲,

英雄心碎自由樓。

白頭壯士真憂國,

紅袖佳人解報仇。

談笑眼幾空一世,

死生人自足千秋。

豪情妙論紛紛是,

一讀令人壹點頭。

 

Giai nhân kỳ ngộ cảm đề

 

Âu Á phong trào hám ngũ châu,

Anh hùng tâm toái tự do lâu.

Bạch đầu tráng sĩ chân ưu quốc,

Hồng tụ giai nhân giải báo cừu.

Đàm tiếu nhãn cơ không nhất thế,

Tử sinh nhân tự túc thiên thâu.

Hào tình diệu luận phân phân thị,

Nhất độc linh nhân nhất điểm đầu.

 

Giai nhân kỳ ngộ diễn ca là truyện thơ lục bát của Phan Chu Trinh, gồm gần 7000 câu thơ và 27 bài thơ ca xen kẽ, trong đó có thất ngôn bát cú, thất ngôn trường thiên, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn, hát nói, văn tế, hịch. Xuất xứ cuốn truyện là tác phẩm Kajin no Kigū (Kỳ ngộ của giai nhân), một trong ba tiểu thuyết chính trị tiêu biểu cho trào lưu văn học khai sáng vào thời Minh Trị của Nhật Bản, do Tôkai Sanshi, tên thật là Shiba Shirō (1852-1922) sáng tác và công bố trong vòng 12 năm 1885-1897. Kajin no Kigū được Lương Khải Siêu dịch ra văn xuôi Trung Quốc ngay trên con tàu đưa ông sang Nhật tránh hậu quả cuộc Chính biến Mậu Tuất, đăng lần đầu trên Thanh nghị báo năm 1898-1901, in thành sách năm 1901, sau đó in lại nhiều lần.

Năm 1906, Phan Chu Trinh sang Nhật đọc được bản dịch của họ Lương lấy làm tâm đắc, đã viết ngay bài Giai nhân kỳ ngộ cảm đề này. Và có lẽ, phải sau khi sang Pháp, ông mới bắt đầu viết truyện thơ Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, được Ngô Đức Kế cho in lần thứ nhất năm 1926 tại Hà Nội nhưng bị tịch thu và tiêu huỷ, sau đó đến 1958 được NXB Hướng Dương in và Lam Hồng phát hành.

 

Bản dịch của Phan Chu Trinh:

Cụm sóng Âu châu đập cái đùng,

Tan gan nát ruột kẻ anh hùng.

Kia người tóc trắng còn chăm nước,

Đến ả mày canh cũng biếng chồng.

Ba kiếp vẻ vang coi đã chắc,

Một đời lúc nhúc ngó như không,

Ngàn câu máu nóng trăm dòng luỵ,

Đọc đến ai không nhủn tấm lòng.

 

Bản dịch của Ngô Đức Kế:

 

Ngọn sóng đua tranh khắp địa cầu,

Anh hùng lắm lúc ruột gan đau.

Kìa người đầu bạc còn lo nước,

Nọ khách môi son biết trả thù.

Hay dở người đời xem mỏi mắt,

Thác còn gương sáng giọi nghìn thu.

Lời hơn lẽ phải nghe hay thiệt,

Đọc đến thì ta lại gật đầu.

ĐỌC THƠ CỤ PHAN CẢM THÁN

 

Phong trào độc lập khắp năm châu

Bốn bể anh hùng thấm nỗi đau

Tráng sĩ bạc đầu lo cứu nước

Giai nhân má thắm cũng đi đầu

 

Ông đọc thơ người, ông cảm thán

Toàn dân nước Việt há thờ ơ?

Cùng nhau nổi dậy xua quân Pháp

Giành lại non sông dựng cõi bờ.

 

Thế hệ cha ông đã nặng công

Vun bồi đất nước, giữ non sông

Chúng tôi tiếp nối đem công sức

Máu đổ xương phơi giống Lạc Hồng.

 

Giặc cộng bắc phương bán nước nhà

Ôm chân Các Mác lẫn Tàu, Nga

Đem bao hờn oán xương chồng chất

Máu đổ thành sông lệ chửa nhòa.

 

Thế lực ngoại bang đã rắp tâm

Sau lưng hèn mạt nhát dao đâm

Mùa xuân năm đó ôi tan nát

Cả nước ngục sâu mãi đắm chìm.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, GA May 20th, 2020

 

(1)Phan Châu Trinh (còn được gọi Phan Chu Trinh; (1872 – 1926), hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam. Ông người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam.

 

 

THÂN PHẬN NGƯỜI LÍNH THUA CUỘC


Thơ Phan Chu Trinh  潘周楨:

 

無題

縲綏鐵鎖出都門,

慷慨悲歌舌尚存。

國土沉淪民族纍,

男兒何事怕崑崙。

潘周楨

 

Vô Đề

Luy tuy thiết toả xuất đô môn

Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn

Quốc thổ trầm luân dân tộc luỵ

Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn

Phan Chu Trinh

 

Không Đề - Nguyễn Minh Thành cẩn dịch:

 

Xích tay ra khỏi chốn đô môn

Khẳng khái ngùi ca lưỡi vẫn còn

Tổ Quốc đắm chìm dân khốn đốn

Làm trai há sợ ngục Côn Lôn

 

***

 

THÂN PHẬN NGƯỜI LÍNH THUA CUỘC

 

Nước mất, nhà tan, nợ núi sông

Mang thân bại trận tủi khôn cùng

Một đời chinh chiến trên tiền tuyến

Thoắt chốc thành ra kẻ bại vong.

 

 

Cuộc cờ biến đổi không ngờ được

Chiến đấu oai hùng cũng phải thua

Đánh đấm hai tay như bị trói

Đồng minh bội phản chán chường chưa?

 

Chính trị trò chơi quân bỉ ổi

Mặt trơ trán bóng Washington

Mắt lơ mày láo phường gian xảo

Xương máu hy sinh thật uổng công.

 

Thua cuộc phải vào địa ngục sâu

Dưới tay cộng sản thật u sầu

Bởi thân nhược tiểu không tự chủ

Mang tiếng kẻ thua. Thế mới đau!

 

Ngồi đếm thời gian giữa ngục sâu

Khổ sai lao dịch bao năm sau

Những chàng trai trẻ thân cường tráng

Một chốc thành ra mắt úa màu.

 

Khoác lác vượn người nói tứ tung

Huênh hoang nón cối tựa quân khùng

Thằng ngu giáo dục thằng ăn học

Bàn độc lên chân thật nhố nhăng (1)

 

Sầu hận mang theo đến cuối đời

Nghĩ về quê cũ chẳng hề nguôi

Mật đắng nuốt hoài trôi chẳng được

Tuổi già tóc trắng lệ sầu rơi.

 

VŨ UYÊN GIANG

Bonaire, GA May 21st, 2020

(1)Chó nhẩy bàn độc